Thất thủ Hoài Đông Lưu_Kỹ

Ngụy Lương Thần nói Kỹ là danh tướng, không nên nhàn rỗi lâu ngày, triều đình bèn mệnh cho Kỹ làm Tri Đàm Châu [lower-alpha 25], gia Thái úy, trở lại nhận chức ở Kinh Nam phủ kiêm quản quân đội [lower-alpha 26].[16] Phía đông huyện Giang Lăng có Hoàng Đàm; trong niên hiệu Kiến Viêm, quan viên phụ trách tháo nước vào Trường Giang để trấn áp giặc cướp, do vậy vào mùa hạ – thu nước dâng, khoảng Kinh, Hành [lower-alpha 27] đều chịu nạn lũ lụt. Kỹ bèn mệnh cho lấp đi, làm ra mấy ngàn mẫu ruộng màu mỡ, lưu dân tự chiếm dụng có đến vài ngàn hộ.[1]

Nhân dịp đầu năm thứ 30 (1160), [lower-alpha 28] Kỹ xin chiêu mộ 6,000 binh, chia làm 2 cánh quân, đặt tên là Kinh Nam phủ trú trát ngự tiền hiệu dụng trung quân và tả quân, lấy cháu mình là Lưu Tỷ làm Trung quân thống chế, Chu Uân Sung làm Tả quân thống chế, triều đình đồng ý. Từ trước, Kỹ xin 30 vạn quan tiền, triều đình đồng ý; đến nay Kỹ xin thêm 40 vạn quan tiền, triều đình không còn tiền, phải tìm các loại ngân phiếu, hóa phiếu có giá trị tương đương giao cho ông. [lower-alpha 29] Vậy là Kỹ được sung chức Kinh Nam phủ trú trát ngự tiền chư quân thống chế. Tháng 10 ÂL, Kỹ được đổi gia quan là Uy Vũ quân Tiết độ sứ, rời Kinh Nam nhận chức Trấn Giang phủ Trú trát ngự tiền chư quân đô thống chế.[16]

Năm thứ 31 (1161), Kim đế Hoàn Nhan Lượng điều 60 vạn quân, tự mình nam chinh; người Tống trông xa vài mươi dặm, thấy đội ngũ của quân Kim kéo dài không dứt như núi bạc vách sắt, khiến trong ngoài triều đình chấn động. Bấy giờ tướng giỏi chẳng còn ai, triều đình bèn lấy Kỹ làm Giang, Hoài, Chiết Tây chế trí sứ, Tiết chế chư lộ quân mã. Tháng 8 ÂL, Kỹ đem binh đồn trú Dương Châu, dựng cờ trống của đại tướng, khí thế rất hùng tráng, ai trông thấy cũng than thở.[1][17] Bấy giờ Kỹ đang bệnh, không thể cưỡi ngựa, bèn lấy da bọc tre làm kiệu để ngồi. Tháng 9 ÂL, Kỹ rời Dương Châu.[17]

Tháng 10 ÂL, người Kim đóng trại ở Thanh Hà Khẩu [lower-alpha 30], lấy thuyền bọc da thú để chở lương đem đến; Kỹ sai thợ lặn giỏi đục thuyền, khiến người Kim kinh sợ.[1][18] Trong tháng ấy, Kỹ đưa quân vượt sông Hoài, muốn đón đánh quân Kim.[18]

Trước đó, người Kim bàn bạc lưu lại tinh binh ở Hoài Đông để chế ngự Kỹ, còn đại binh tiến vào Hoài Tây; tướng Tống ở Hoài Tây là Vương Quyền không nghe theo sự chỉ huy của Kỹ, không đánh mà chạy, từ Thanh Hà Khẩu lùi về Dương Châu, rồi đem thuyền chở dân chúng Chân Châu [lower-alpha 31], Dương Châu sang bờ nam Trường Giang, sau đó vất bỏ quân đội ở Qua Châu. Nghe tin dữ, Kỹ từ Sở Châu [lower-alpha 32] lùi quân về Triệu Bá trấn [lower-alpha 33]; quân Kim đánh Chân Châu, Kỹ đưa quân về Dương Châu, tướng giữ thành là Lưu Trạch cho rằng thành không thể giữ, xin lui về Qua Châu [lower-alpha 34]. Quân Kim chiếm Dương Châu, Vạn hộ Cao Cảnh Sơn thừa thắng đánh Qua Châu; Kỹ sai Viên Kỳ chặn địch ở Tạo Giác Lâm [lower-alpha 35]. Quân Tống rơi vào vòng vây, bọn Viên Kỳ ra sức chiến đấu, lại thêm cánh quân mai phục ở trong rừng dùng nỏ mạnh bắn ra, đánh cho quân Kim đại bại, chém được Cao Cảnh Sơn, bắt sống vài trăm người. Kỹ báo tiệp, được ban 500 lạng vàng, 7 vạn lạng bạc để khao quân.[1][18]

Trong tháng ấy, Kỹ bệnh trở nặng, xin cởi binh quyền, sai cháu trai Lưu Tỷ đem 1,500 người lấp bến đò Qua Châu, lại lệnh cho Lý Hoành đem 8,000 người cố thủ ở đấy. Triều đình giáng chiếu cho Kỹ chuyên tâm phòng bị Trường Giang, ông bèn quay về Trấn Giang.[1][18]

Tháng 11 ÂL, quân Kim đánh Qua Châu, Lưu Tỷ lấy Khắc địch cung để bắn lùi địch. Bấy giờ Tri Xu mật viện sự Diệp Nghĩa Vấn được làm Đốc sư Giang, Hoài, đến Trấn Giang, thấy Kỹ bệnh nặng, bèn lấy Lý Hoành tạm quyền nắm quân đội của Kỹ. Diệp Nghĩa Vấn thúc hậu quân Tống ở Trấn Giang vượt sông, mọi người đều nói không thể, nhưng ông ta cưỡng ép phải đi. Lưu Tỷ cố xin ra đánh, Kỹ không nghe, Tỷ bèn vái gia miếu rồi đi. Đại binh Kim áp sát Qua Châu, chia binh ra phía đông để chiếm thượng du, rồi ập về Qua Châu; Diệp Nghĩa Vấn đến bờ sông thì khiếp sợ quay lại, còn Lưu Tỷ bỏ chạy trước, Lý Hoành lấy cớ cô thế cũng bỏ chạy, đánh mất cả ấn Đô thống chế. Quân Tống đại bại, Tả quân thống chế Ngụy Hữu, Hậu quân thống chế Vương Phương đều chết ở trong rừng, khắp mình thương tích, chỉ có Lưu Tỷ, Lý Hoành một mình chạy thoát [lower-alpha 36].[1][18]